Thực hiện mục tiêu phát triển nền nông nghiệp hữu có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, năm 2023, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với các đơn vị tập trung triển khai các dự án sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn gắn với vùng nguyên liệu và các sản phẩm chủ lực.
Trong đó, ưu tiên các vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho đối tượng cây trồng, vật nuôi phù hợp thích nghi với từng địa phương. Trên cơ sở công nghệ sẵn có, tích hợp được từ các cơ quan nghiên cứu, cùng với doanh nghiệp và đặc biệt là kết nối hệ thống khuyến nông, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai một loạt các mô hình khác nhau tại các địa phương.
Nhằm lan toả và nhân rộng các mô hình này, ngày 22/7/2023 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức đoàn truyền thông giới thiệu các mô hình điển hình tại tỉnh Hà Tĩnh.
Trong chương trình phát triển nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Tập đoàn Quế Lâm, đoàn đến tham quan mô hình ứng dụng phân bón hữu cơ sản xuất lúa theo hướng hữu cơ với quy mô 3,5 ha, năng suất dự kiến trên 5 tấn/ha tại xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc. Hiện nay mô hình đã triển khai 20 ha gốc rạ vụ xuân được xử lý hoai mục ngay tại ruộng sau 8 -10 ngày để sản xuất lúa mùa; ứng dụng phân bón hữu cơ sản xuất 15 ha lúa theo hướng hữu cơ. Hiệu quả mô hình sẽ giảm được 100% phân bón hữu cơ vi sinh, cam kết tiêu thụ 100% sản phẩm cho bà con nông dân với giá 7.500 đồng/kg lúa. Mô hình áp dụng công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ phụ phẩm chăn nuôi, trồng trọt; xử lý gốc rạ ngay tại ruộng và quy trình sản xuất lúa theo hướng hữu cơ.
Đoàn thăm mô hình ứng dụng phân bón hữu cơ sản xuất lúa theo hướng hữu cơ tại xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc |
Mô hình đã làm thay đổi nhận thức và nâng cao trình độ của người dân địa phương trong sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, giảm thiểu tình trạng đốt rơm rạ ngoài đồng và xả chất thải trong chăn nuôi trút bỏ xuống kênh, rạch, sông, suối. Đồng thời giảm thiểu được việc lạm dụng phân bón hóa học, cải thiện độ phì nhiêu và nâng cao dinh dưỡng đất, hạn chế bệnh vùng rễ cây trồng cạn, giúp người dân tăng thu nhập, tăng giá trị sản phẩm và ổn định sản xuất.
Ông Lê Quốc Thanh – Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định: Với xu hướng hiện nay tiến tới nền nông nghiệp sạch, xanh thì ứng dụng công nghệ sản xuất lúa hữu cơ là hướng chúng ta mong muốn đạt tới. Với cách tiếp cận làm thế nào để xử lý môi trường, xử lý phế thải trong sản xuất lúa đang được đặt ra hiện nay, nhất là khoảng thời gian thu hoạch lúa xuân đến lúa hè thu rất ngắn thì việc ứng dụng công nghệ vi sinh trong phân huỷ rơm rạ để chuyển vụ nhanh là giải pháp hữu hiệu. Chúng tôi muốn truyền tải công nghệ thông qua mô hình này và bước đầu đã thành công, chuyển vụ chỉ trong thời gian dưới 10 ngày, kết quả cho thấy cây lúa phát triển tốt, chống ngộ độc hữu cơ đồng thời lại bổ sung hữu cơ cho đất.
"Ứng dụng công nghệ sản xuất lúa hữu cơ là hướng chúng ta mong muốn đạt tới" - GĐ TTKNQG nói |
Đến với mô hình hợp tác xã nuôi ong và xây dựng sản phẩm OCOP do Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh chủ trì, kết quả bước đầu tạo được vùng chăn nuôi lấy mật có hiệu quả, nâng cao thu nhập cho các hộ dân và tạo vùng sinh thái vườn đồi. Mô hình áp dụng quy trình chăn nuôi ong nội lấy mật và quản lý nhân đàn, sử dụng giống ong nội Apis cerana, đồng thời tư vấn, hướng dẫn hợp tác xã đăng kí chương trình OCOP tại tỉnh. Hướng dẫn hộ nuôi thiết kế bao bì, nhãn mác đựng sản phẩm phù hợp; thiết kế logo, đăng kí sở hữu trí tuệ; xây dựng video câu chuyện sản phẩm; xây dựng tờ rơi, pano; trang web quảng bá sản phẩm.
Mô hình có quy mô 500 đàn/10 hộ tham gia. Mặc dù thời tiết nắng nóng kéo dài nhưng sau gần 2 tháng nuôi đàn ong phát triển tốt, ổn định đàn và khai thác 3 đợt mật với sản lượng trung bình 1,8 - 2,1 kg/đợt/đàn, nâng cao hiệu quả kinh tế so với chăn nuôi ong truyền thống trước đây. Trung tâm Khuyến nông đã hỗ trợ thành lập 1 hợp tác xã và xây dựng sản phẩm mật ong đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao.
Đoàn thăm mô hình hợp tác xã nuôi ong và xây dựng sản phẩm OCOP |
Hộ tham gia dự án cho biết, các hộ được hỗ trợ nguồn ong giống tốt, tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn trực tiếp của cán bộ và tuân thủ quy trình kỹ thuật như bổ sung phấn hoa, chống nóng vượt hè nên sản lượng mật cao gấp 2 lần so với nuôi ong truyền thống giống ong tự nhiên.
Mô hình đã xây dựng sản phẩm mật ong đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao |
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng đạt chứng nhận VietGAP ở Bắc Trung Bộ, áp dụng công nghệ nuôi 2 giai đoạn đảm bảo an toàn thực phẩm mang lại hiệu quả cho người nuôi tôm, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi tôm tại Việt Nam. Mô hình giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính; bảo vệ sức khỏe cho người lao động và có trách nhiệm với xã hội do việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật; sản xuất sản phẩm đạt chỉ tiêu an toàn thực phẩm, cho năng suất 16 tấn/ha, doanh thu 1,6 tỷ đồng/ha. Hiệu quả kinh tế tăng 15% so với trước khi thực hiện mô hình. Đồng thời hình thành 2 chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm, trên 90% số hộ tham gia mô hình được ký hợp đồng thu mua sản phẩm.
Mô hình này đã ứng dụng công nghệ cao trong nuôi tôm, song song đó là giải pháp phối hợp với doanh nghiệp để cung cấp đầu vào cho mô hình, đồng thời họ sẽ luôn đồng hành trong việc quan trắc môi trường theo định kỳ cho nông dân, họ sẽ kiểm soát từ môi trường nuôi đến thức ăn… Như vậy, để tiến tới nền sản xuất tôm hữu cơ, không kháng sinh, an toàn là rất dễ tiếp cận nếu bà con tuân thủ nghiêm quy trình nuôi.
Về liên kết với doanh nghiệp trong triển khai mô hình, ông Lê Quốc Thanh – Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia nhận định: Việc duy trì và nhân rộng mô hình thì doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng – họ là những người giúp nông dân tiếp cận với những vật tư nông nghiệp đầu vào cũng như giải quyết sản phẩm đầu ra. Nếu như doanh nghiệp đồng hành cùng người sản xuất, chắc chắn họ sẽ có sản phẩm đầu vào và sản phẩm đầu ra minh bạch, như vậy mới phát triển bền vững được.
Để quảng bá, nhân rộng và lan toả những mô hình mới, công nghệ mới, hệ thống khuyến nông các cấp phải giúp bà con được tiếp cận với công nghệ từng bước, được nhìn thấy hiệu quả trực tiếp của mô hình, đồng thời đào tạo huấn luyện cho bà con ngay tại mô hình, tổ chức các đoàn tham quan để trao đổi kinh nghiệm, cách thức, công nghệ và kết hợp với hoạt động truyền thông để công nghệ phải xuống cánh đồng, vào được từng gia đình. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT cùng các đơn vị chuyển giao công nghệ, trung tâm khuyến nông các tỉnh và doanh nghiệp cùng có trách nhiệm tiếp tục duy trì, phát triển, lan toả, nhân rộng những mô hình này tại các địa phương.
Để phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn!
Ông Lê Quốc Thanh – Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng hiện nay phát triển mô hình nông nghiệp xanh và nông nghiệp tuần hoàn là rất cần thiết. Phải xác định đây là quá trình phải tiến hành bằng các giải pháp, các quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ sinh học đang được thúc đẩy đối với sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp tuần hoàn chính để làm tăng giá trị gia tăng trong sản xuất. Chúng tôi đánh giá rất cao về cách tiếp cận nông nghiệp tuần hoàn của Thừa Thiên Huế và các tỉnh Bắc Trung Bộ, thể hiện ở các chiến lược và kế hoạch hành động từ UBND tỉnh, đến Sở Nông nghiệp và PTNT và cụ thể hơn là giao cho Trung tâm khuyến nông những hoạt động rất cụ thể. Từ đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT giao Trung tâm Khuyến nông Quốc gia thực hiện các mô hình và đồng hành cùng doanh nghiệp. Đối với kinh tế tuần hoàn và nông nghiệp hữu cơ, chúng tôi đã tìm đối tác là tập đoàn Quế Lâm là đơn vị có nhiều năm kinh nghiệm về sản xuất phân bón cũng như quy trình chăn nuôi hữu cơ, kinh tế tuần hoàn. Khuyến nông Quốc gia sẽ đồng hành với các trung tâm khuyến nông các tỉnh và có doanh nghiệp đồng hành. Chính doanh nghiệp sẽ duy trì được chuỗi cung cấp dịch vụ đầu vào, đảm bảo đầu ra và đồng hành cùng lực lượng khuyến nông chuyển giao công nghệ này cho sản xuất. Hiện nay, với nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ là việc khó, là chặng đường dài nhưng hoàn toàn có thể phát triển được bằng các giải pháp của khoa học, công nghệ sinh học vì thực tế đã có những mô hình đang hiện hữu. Ví dụ: Mô hình chăn nuôi lợn thịt theo hướng hữu cơ giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Tập đoàn Quế Lâm đã ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý nước thải, môi trường chăn nuôi. Mô hình không sử dụng nước mà sử dụng đệm lót sinh học nên không có mùi, tiếp tục ủ đệm lót thành phân bón hữu cơ để sử dụng cho cây trồng. Hoặc như huyện A Lưới là vùng khó khăn của Thừa Thiên Huế mà bà con đã làm được nông nghiệp tuần hoàn, như chúng ta thấy chuồng lợn, phân bón không có mùi, sử dụng phân bón để trồng sâm bố chính là cây đặc sản của địa phương. Như vậy khẳng định về quy trình công nghệ, về giải pháp không khó khăn nhưng vấn đề là phải hiểu được nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ để từ chính quyền địa phương đến cộng đồng, những người sản xuất và đặc biệt mỗi địa phương phải tạo cơ chế chính sách giúp đồng bào tiếp cận được hỗ trợ của nhà nước, của doanh nghiệp để phát triển được sản phẩm hữu cơ. |
Đỗ Tuấn – Thu Hằng